Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2009

Bàn thêm về nguyên nhân sụt giảm thanh khoản của các NHTM trong thời gian gần đây

Theo tôi thanh khoản của các banks giảm sút do mấy nguyên nhân sau đây:

1. Nợ xấu (và cả nợ quá hạn nữa) của các ngân hàng tăng lên (theo như tôi được biết, nếu như tại thời điểm tháng 8/2009, nợ xấu ngành ngân hàng khoảng 2,5% thì nay nó đã lên khoảng 3% và hơn nữa rồi); Nó tác động tới khả năng vốn và tài chính của ngân hàng trên cả 2 phương diện: (i) thu hồi nợ để tái quay vòng vốn tín dụng hoặc trả nợ vốn huy động đến hạn; (ii) tăng trích lập dự phòng rủi ro.

2. Các doanh nghiệp đang có thiên hướng vay vốn với kỳ hạn dài hơn trước đây (một phần vì gia tăng các hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư nó đòi hỏi kỳ hạn vốn dài hơn hoạt động thương mại, một phần vì vay vốn đầu tư kỳ hạn trung-dài hạn được Chính phủ hỗ trợ lãi suât theo chương trình kích cầu), trong khi nguồn vốn của các banks hiện tại chủ yếu là deposits với kỳ hạn ngắn (từ 12 tháng trở xuống). Nó tạo ra khe hở kỳ hạn, ảnh hưởng tới vấn đề thanh khoản.

3. Tiền gửi VND vào ngân hàng không nhiều do lãi suất chưa thật sự hấp dẫn vì lạm phát kỳ vọng cho 2010 là cao (gần đây nhiều chuyên gia cho rằng năm 2010 lạm phát 2 con số, khoảng 10% trở lên, please check); trong khi đó nạn đầu cơ các tài sản khác vẫn lớn;

4. Số lượng các NHTM (tôi muốn nói là Ngân hàng thương mại, ở các nước phát triển nó cũng nhiều ngân hàng nhưng nó đa dạng các loại hình ngân hàng chứ không phải toàn bộ là NHTM như VN); do đó nó làm phân tán nguồn tiền; mà NHTM nào cũng cố dành giật thị phần và muốn tăng trưởng quy mô tín dụng do hầu hết vẫn còn là quy mô nhỏ, cam kết cho vay lắm, đầu tư đa dạng lắm nhưng khả năng huy động vốn còn yếu do chỉ trông chờ vào mỗi deposits; hầu hết NHTM nào cũng muốn mình trở thành ngân hàng đa năng (universal bank) làm đủ mọi thứ. Chính vì thế NHTM nào cũng thiếu tiền. (Nhưng tôi cho rằng đây không phải là nguyên nhân chủ yếu). Nếu sau này một số ngân hàng chuyển hướng thành các ngân hàng chuyên biệt thì sẽ đỡ hơn.

5. Cầu về vốn tăng cao, tạo thêm áp lực thanh khoản đối với các NHTM. Sự gia tăng đầu tư và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh (cả ngắn hạn, trung-dài hạn) của các doanh nghiệp sau khủng hoảng đẩy nhu cầu vốn lên cao, trong khi NHNN lại đang thắt chặt lại, làm giảm khả năng cung ứng thêm tiền cho lưu thông, trong khi các cam kết tín dụng lại đã ký từ trước do tưởng có tiếp kích cầu II cho cả vốn ngắn hạn.

6. Vấn đề vòng quay của tiền (thực ra vấn đề vòng quay của tiền nó khá bao trùm lên những cái khác, những vấn đề khác trong 1 chừng mực nhất định chính là nguyên nhân về chuyện vòng quay của tiền giảm sút, ví dụ: nợ xấu cũng là nguyên nhân, nhưng không phải là nguyên nhân duy nhất; mà nguyên nhân có thể đến từ nhiều thứ khác nhiều hơn 5 nội dung nêu trên)

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009

Tiền đồng đi đâu?


Một số người bạn của tôi có đặt vấn đề là sao tiền VND khan hiếm thế, nó đi đâu mất rồi?
Có người nói rằng nó chạy sang Trung Quốc. Tôi cũng nghĩ như vậy nhưng như thế chưa đủ; thực tế nhập siêu hàng TQ của VN là rất lớn, trong đó hàng tiểu ngạch chiếm 1 phần quan trọng... Nhưng nó cũng không đủ lớn để hút hết VND sang TQ; hơn nữa, VND nó chạy sang TQ thì cũng chỉ là trong ngắn hạn mà thôi; bọn TQ sẽ lại vác VND sang VN để múc USD, khoáng sản, gái VN, dược liệu quý hiếm, lâm đặc sản... Như vậy, xét về hình thái vật chất của tiền VND thì nó chẳng chạy đi đâu xa được và cũng chẳng chạy đi đâu lâu được, có chăng sang TQ cũng chỉ là tạm thời mà thôi. Chúng ta quá rõ với nhau rằng VND chưa đạt được chức năng thanh toán quốc tế, chưa có vị thế của một đồng tiền chuyển đổi.

Tôi xin trao đổi, lý giải cho vấn đề này như sau:

Chúng ta nhiều khi cảm thấy nền kinh tế kém thanh khoản, ko hiểu tiền trong nền kinh tế đi đâu. Thực tế thì nó chẳng đi đâu cả; ngoài 1 phần tạm thời chạy sang TQ (nhưng đó chỉ là tạm thời thôi). Chúng ta cảm thấy thiếu tiền biểu hiện ở chỗ các giao dịch trong nền kinh tế không thực hiện được, đâu cũng thấy rất khó vay vốn.
Nó là vì một cái gọi là "velocity of money" (tôi ko biết dịch cái từ này ra là gì, tạm gọi nó là "vòng quay của tiền" đi, ở đây tạm viết tắt là VQCT). Công thức của nó như sau:

VQCT*Lượng tiền trong lưu thông = Giá trị danh nghĩa của tất cả các giao dịch trong nền kinh tế = P.Q        (**)

Nếu như trong nền kinh tế, VQCT càng lớn thì nó thể hiện có càng nhiều các giao dịch trong nền kinh tế được thực hiện, và khi đó nền kinh tế có sự thanh khoản tốt. Ngược lại, nếu VQCT càng thấp thì thể hiện thanh khoản càng thấp. Ví dụ 1 cách nôm na nông dân thế này: khi VQCT lớn, 1 ngày bạn có thể thực hiện được 3 giao dịch thương mại mua-bán nên bạn cảm thấy tiền quay về với bạn rất nhanh; nhưng khi VQCT nhỏ, 1 ngày may lắm mới thực hiện được 1 giao dịch nên có khi hôm nay mua nhưng phải mấy ngày sau mới lại thực hiện được 1 giao dịch bán, vì thế tiền nó chậm quay về với bạn

Đối với VN chúng ta, lượng tiền trong lưu thông không hề thấp đi trong năm 2009 bởi vì:

- Anh Ninh tuyên bố là tại thời điểm tháng 7/2009, chúng ta mới dùng 43% kế hoạch in thêm tiền để phục vụ tăng trưởng [[i]]. Như vậy tức là lượng tiền trong lưu thông tăng lên, vì dự trữ bắt buộc không có thay đổi tăng nào đáng kể.
- Tín dụng tăng trưởng ác liệt vượt cả mức 30% mà Anh Giàu đưa ra cơ mà, đến hết tháng 11 đã là 36% rồi.

Trong khi đó, nền kinh tế của chúng ta mới bắt đầu qua đáy khủng hoảng, tăng trưởng chưa được bao nhiêu cả, sản lượng tăng thêm chưa thực sự nhiều; giá trị danh nghĩa của các giao dịch trong nền kinh tế có tăng cũng chủ yếu do giá cả tăng.

Như vậy, từ phương trình (**) nêu trên chúng ta rút ra rằng vấn đề chính là do VQCT giảm sút, thể hiện sự không sôi động của nền kinh tế, làm cho chúng ta cảm thấy không biết tiền đi đâu. Vậy nguyên nhân nào làm kém sự sôi động này? Theo tôi có mấy nguyên nhân sau đây:
-          Một là, do sự đầu cơ của nền kinh tế: Ngày càng nhiều doanh nghiệp và cá nhân/hộ gia đình vác tiền đi đầu cơ (Ví dụ: Vàng, USD, bất động sản…); dẫn đến các tài sản này, dù không tham gia vào sản xuất sản phẩm cho xã hội một cách trực tiếp, do bị đầu cơ nên đọng vào một chỗ, làm thiếu hụt 1 lượng hàng hóa trong giao dịch của nền kinh tế => nền kinh tế kém sôi động… Điều này theo tôi là đặc biệt đúng đối với lĩnh vực BĐS ở VN. (Và điều quan trọng là , bởi vì vàng, USD, BĐS… không được tính trong công thức nêu trên (công thức (**)), nhưng nó vẫn cần VND để giao dịch nên nó hút một lượng lớn đáng kể VND do gia tăng sự đầu cơ vào lĩnh vực này, mà đã là hiện tượng đầu cơ thì nó sẽ chỉ loanh quanh trong lĩnh vực đó mà thôi, chủ yếu là thế; người ta có thể bán đất đai mua ôtô nhưng cũng chỉ mua 1-2 cái là cùng, còn nhà đất thì có thể có tới vài chục cái, và VND nó cứ luẩn quẩn như thế giữa các nhóm đầu cơ và các nhà đầu tư trong cái lĩnh vực ấy của nền kinh tế, tạo nên các bong bóng tài sản). Chính nó làm cho 1 lượng lớn tiền không đi vào sản xuất để tạo ra của cải cho xã hội.
-          Nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên (kiểu như VN) sẽ bị ảnh hưởng nặng khi thiên tai bão lũ nhiều khiến việc khai thác tài nguyên (Than, khoáng sản, nước… ) bị ảnh hưởng gián đoạn; trong một số trường hợp khi tài nguyên bị cạn kiệt sẽ dẫn đến thiếu hụt cung nguyên liệu cho sản xuất, dẫn đến hạn chế sự quay vòng của đồng tiền. 
-          Quá trình kiểm soát thiếu bài bản của NHNN khi chỉ đơn thuần đưa ra 1 tỷ lệ rất hành chính về tăng trưởng tín dụng (30%, sau đó hứng lên bảo là 25%-27%, 2 tuần sau lại bảo là quay về 30%, nhưng do kích cầu nên các NHTM nó phi dư nợ lên hơn 30%, đến hết tháng 11 là khoảng 36% [[ii]]), cuối quý IV thi nhau bảo phải ép dư nợ xuống. Oái oăm là ở chỗ trước đó có thông tin từ phía Chính phủ bảo rằng sẽ tiếp tục hỗ trợ lãi suất đối với cho vay ngắn hạn đến hết Quý I/2010 [[iii]], nên nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng tạm trữ nguyên liệu cho sản xuất hoặc đầu cơ hàng hóa, các NHTM cũng không sợ lắm bị phanh hạn mức. Đến khi Chính phủ bất thình lình tuyên bố ngược lại là không hỗ trợ lãi suất ngắn hạn nữa [[iv]] và NHNN bắt đầu thắt chặt tín dụng, các NHTM phải giảm dư nợ, giảm hạn mức, thế là các doanh nghiệp không vay được tiền nữa vì tổng hạn mức bị giảm, một phần hạn mức trước đó đã vào tạm trữ/đầu cơ nguyên liệu các loại mất rồi. Do đó các doanh nghiệp thiếu tiền, không đẩy mạnh sản xuất được, sản lượng hàng hóa của nền kinh tế kém đi, các giao dịch của nền kinh tế giảm sút, dẫn đến sự kém thanh khoản và cảm giác thiếu tiền như chúng ta đang thấy.
-          Một phần VND tạm thời chạy sang TQ như trên có nói.

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2009

Bơm tiền ???

Trung tuần tháng 12, Thống đốc NHNN tuyên bố rằng không có chuyện bơm tiền cho các ngân hàng.
http://vovnews.vn/Home/Khong-co-chuyen-bom-tien-cho-cac-ngan-hang/200912/129258.vov

Nhưng Thống đốc không thấy nói rằng NHNN đã mua vào hay bán ra các giấy tờ có giá từ các NHTM trong thời gian này.
Trong khi đó, Artex dẫn nguồn thống kê từ Bloomberg về nghiệp vụ trên thị trường mở, từ ngày 1/12 đến ngày 8/12, NHNN đã mua vào các giấy tờ có giá từ các NHTM với giá trị là 29.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 ngày và lãi suất 8%/năm. (http://www.bsc.com.vn/News/2009/12/16/74671.aspx)

Thật là hài hước.
Các hoạt động thị trường mở (OMOs) thực chất là một trong các công cụ/cách thức điều tiết cung tiền đối với nền kinh tế. Khi NHNN mua các giấy tờ có giá tức là bơm tiền rồi (về kinh tế học là như vậy); thế mà vẫn khẳng định là không bơm tiền. Nếu như NHNN mua vào giấy tờ có giá của ngân hàng này và bán ra giấy tờ có giá cho ngân hàng kia thì còn có lý, đằng này chẳng có công bố nào về việc bán ra giấy tờ có giá hay gì cả.
Thà không tuyên bố gì thì thôi, hoặc cho rằng OMOs là hoạt động bình thường mang tính ngắn hạn và tuyên bố cho nó đầy đủ. Đằng này...
Chán thật

Tiếp tục ???

Sau một thời gian không cập nhật Blog vì rất nhiều lý do (mặc dù vẫn tích cực nghiên cứu), trong đó có những vấn đề liên quan đến công việc và quan ngại đến QĐ97; tôi thấy mình cần tiếp tục... Dưới đây là lược trích 1 kết quả nghiên cứu hồi đầu tháng 12/2009 khi đang ở Washington D.C
-------------------------------------------------------------------

Washington D.C, ngày 02/12/2009
 

1. Lãi suất:
- Ngay sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản, từ ngày 01/12/2009, các NHTM đã điều chỉnh lãi suất và lãi suất cho vay đã đạt mức trần; Lãi suất huy động cũng đã điều chỉnh nhưng chưa thực sự mạnh và các kỳ hạn bắt đầu giãn mức lãi suất ra so với trước thời điểm NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản. Tất cả các NHTM đều đã điều chỉnh lãi suất cho vay lên trần (12%), độ lệch lãi suất (Lợi nhuận biên tín dụng - Net interest Margin (NIM)) được nới ra tạo điều kiện cải thiện về lợi nhuận trong hoạt động tín dụng. Tình hình này cho thấy một điều chắc chắn rằng: Thanh khoản của các NHTM chưa được cải thiện (vì lãi suất cho vay tăng lên là chủ yếu chứ chưa tăng nhiều về lãi suất huy động nên vốn vào thêm chưa đáng kể) và như vậy các NHTM đang thiên về tính toán lợi ích trước mắt, cốt gia tăng lợi nhuận (vì điều chỉnh cả lãi suất trên dư nợ) nhằm cải thiện bảng cân đối tài chính cuối năm, đáp ứng yêu cầu của cổ đông và làm đẹp báo cáo thường niên, báo cáo cuối năm.
- Bản chất thiếu vốn của nền kinh tế chưa được cải thiện, thể hiện ở:
+ Đường cong lợi suất trái phiếu đang tiếp tục tăng cao (xem Hình); và TPCP phát hành không được;
+ Lãi suất trần vẫn thấp hơn lãi suất kỳ vọng
+ Giải ngân FDI đạt thấp, kiều hối chưa mạnh mẽ
+ Giá vàng và USD lên cao hút 1 lượng lớn vốn của dân cư
 

Vấn đề là ở chỗ các NHTM đang và sẽ phải giải quyết vấn đề vốn cho vòng quay tín dụng mới của năm 2010; khi đó bắt đầu trong một giới hạn mới, từ đầu năm phải tìm cách cạnh tranh ngay để giữ vững/mở rộng thị phần huy động và cho vay (Dư nợ của nền kinh tế vẫn phải tăng lên chứ không giảm đi; tức là đòi hỏi thêm nhiều vốn); nhất là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng dữ dội và bất ổn như hiện nay (vấn đề bất ổn xin báo cáo thêm ở phần sau).
Từ phân tích này, chúng tôi cho rằng vấn đề thanh khoản của các NHTM chưa được cải thiện và như vậy nó vẫn đang âm ỉ, hứa hẹn những bước tăng lãi suất tiếp theo trong thời gian tới đây (Quý I/2010); xin giữ nguyên dự báo về khả năng xảy ra “hiệu ứng tuyết lăn” đối với lãi suất thị trường.

2. Tỷ giá:
Mặc dù báo chí loan tin 8 NHTM lớn bắt tay bình ổn tỷ giá [[1]]. Song chúng tôi cho rằng đây là hoạt động theo chỉ đạo của NHNN; nó sẽ chỉ có tác động tâm lý nhất thời mà thôi, bởi vì: Chẳng có Ngân hàng nào in được USD. USD phải từ hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế hoặc từ vốn FDI, kiều hối hoặc vay nợ từ nước ngoài của Chính phủ và tư nhân. Nhưng thực tế là:
+ Nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế VN vẫn cao và không hề thuyên giảm, đó là nhu cầu nhập khẩu hàng hoá đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu; xăng dầu, thiết bị máy móc... Nhập siêu đang tiếp tục lớn dần (nghĩa là chảy USD ra ngoài nước), đến nay đã đạt tới mức trên 20% kim ngạch xuất khẩu; Tức là cơn khát USD vẫn còn đó và sẽ còn tăng.
+ Nguồn USD sẵn có dự trữ của các NHTM không nhiều; vì nếu nhiều thì thời gian vừa qua không đến mức không bán USD ra và luôn đòi thêm phí rất cao lách trần tỷ giá của NHNN. Vì thế khả năng bình ổn là không thực tế.
+ Giải ngân FDI (9 tỷ USD) và kiều hối (khoảng 5-6 tỷ USD) năm 2009 và 2010 không bứt phá do kinh tế thế giới chưa phục hồi.
+ NHNN đang phải tăng tích trữ USD để cải thiện dự trữ ngoại hối (vừa qua dự trữ ngoại hối sụt giảm từ 23 tỷ USD xuống còn 16,5 tỷ USD); Do đó, chính NHNN đang cạnh tranh với khu vực tư nhân về USD; vì vậy khả năng bình ổn là rất hạn chế bởi cung USD thực tế bị hạn chế, bị NHNN hút vào.
+ Năm 2010 Chính phủ đặt mục tiêu chi tiêu công rất lớn, do vâỵ sẽ tạo thêm sức ép lên nhập khẩu và tăng nhập siêu, hun thêm sức nóng cho cơn khát USD.
+ Luôn tồn tại lý thuyết trò chơi trong kinh tế học; hiện tại chỉ là 8 NHTM chứ không phải là gần 100 NHTM, sẽ luôn có tình trạng các NHTM nhìn nhau và ganh tỵ/sợ thiệt; do đó cuộc chơi sẽ tự bị chính các tay chơi phá luật.
Do vậy, chúng tôi cho rằng tỷ giá USD vẫn đang âm ỉ và lại tích luỹ chờ tiếp tục tăng trong những ngày cuối năm 2009 và quý I/2010.
3. Sự bất ổn của nền kinh tế:
- Sự bất ổn về điều hành và Tính "kém khả tín" đối với một số lãnh đạo cấp cao và cơn bão tin đồn:
+ Vấn đề này quá rõ khi nhân dân và các nhà đầu tư nước ngoài được nghe khẳng định rằng không phá giá đồng tiền, giữ nguyên lãi suất cơ bản... nhưng thực tế lại không như vậy. Nó tạo tâm lý bất an và châm thêm ngòi cho các tin đồn; tính thiếu minh bạch của nền kinh tế cũng làm tăng thêm đất cho tin đồi nảy nở. Và các tin đồn ấy làm cho môi trường đầu tư kinh doanh, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhà đầu tư cá nhân, kinh tế hợp tác, cá thể và hộ gia đình thấy bất an và niềm tin kinh doanh bị xói mòn…
+ Riêng vấn đề phá giá đồng tiền và tăng lãi suất cơ bản bất thình lình ngược với tuyên bố của các lãnh đạo cao cấp trước đó chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ tới giá trị tiền vốn (Book value) của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đầu tư tài chính vào trái phiếu, cổ phiếu, hoặc đang trong quá trình giải ngân... Cứ như vậy, huy động trái phiếu sẽ ngày càng khó khăn hơn. Chúng tôi cho rằng việc tăng tỷ giá là đúng song cơ quan thẩm quyền đã hành động rất không đúng lúc và rất muộn màng, đây là thời điểm cuối năm rất nhiều quỹ đầu tư phải báo cáo giá trị sổ sách, thị giá về bản quốc (cả nội tệ và quy về ngoại tệ); giá trị (theo thị giá) tự nhiên sụt giảm 5,4%; và khó có thể xoay chuyển trong những ngày đông còn lại ngắn ngủi này. Sự sụt giảm gần đây (dự báo đến hết năm 2009) của thị trường chứng khoán trong đó có một phần là nguyên nhân này, vì người ta sẽ ưa thích bán chứng khoán hoặc không thích mua chứng khoán nữa để lấy VND chuyển thành USD càng sớm càng tốt; một số phiên gần đây nhà đầu tư nước ngoài mua ròng nhưng khối lượng mua ròng lại quá nhỏ bé, và thấy ngày càng ít sự tham gia mua của các quỹ đầu tư lớn (Nguyên nhân chính vẫn là lo ngại về sự thắt chặt tiền tệ). Đối với FDI, có lẽ cũng vì thế, giải ngân FDI sẽ chững lại đến đầu năm 2010.
+ Các tin đồn ngày càng nhiều và nhiều tin trong đó không có cơ sở:
          * Đổi tiền?: Không thể vì nền kinh tế mở, nó ảnh hưởng tới tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài; sẽ dẫn đến tháo chạy vốn và lập tức rơi vào khủng hoảng thanh toán, có thể ảnh hưởng tới cả chế độ/thể chế hiện thời.
          * Phát hành tiền mệnh giá 1 triệu VND?: Người viết nghĩ rằng việc này chẳng giải quyết được vấn đề lạm phát, và nếu có nó chỉ thuận lợi trong mua bán, sinh hoạt của người dân mà thôi; do đó không khả tín; hơn nữa vấn đề in tiền và chất lượng tiền đang rất bức xúc trong dư luận, chắc không ai khơi ra để làm phức tạp thêm tình hình.
          * Tăng lãi suất cơ bản?: Chúng tôi dự báo sẽ tăng tiếp lãi suất cơ bản trong quý I/2010 (chứ không phải năm 2009) với các mốc có thể là 8,5% hoặc 9%; nhưng nếu có, thì việc tăng dự trữ bắt buộc VND và giảm dự trữ bắt buộc USD sẽ được thực hiện trước.
          * Phát hành tín phiếu bắt buộc (gần giống năm 2008)?: Chắn chắn không xảy ra vì chỉ làm thế trong trường hợp khẩn cấp; hiện tại nếu làm thế nó chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề thanh khoản của các NHTM và làm rối thêm sự luôn chuyển các luồng vốn trong nền kinh tế trong khi các NHTM đang kém thanh khoản (năm 2008 có bài học là NHNN lại phải bơm vốn cho các NHTM này).
- Sự bất ổn trong cán cân thanh toán (trong đó có bất ổn về dự trữ ngoại hối quốc gia và bất ổn về cán cân thương mại), bất ổn trong cân đối ngân sách quốc gia, bất ổn về chủ quyền lãnh thổ (hình như thế, không biết có phải không nữa), về các cấu trúc của nền kinh tế  (kể cả cấu trúc liên ngành và khu vực, thực tế VN có 64 tỉnh thành thì đó là 64 nền kinh tế), mô hình phát triển kinh tế, môi trường kinh doanh bao gồm cả vấn đề cơ sở hạ tầng, bất ổn về nguồn nhân lực xã hội...


Thứ Tư, 7 tháng 10, 2009

Tăng trưởng năm 2009 và triển vọng 2010





1. Tăng trưởng năm 2009:
Năm 2009, sau khi 3 quý đạt kết quả tiến bộ với các chỉ số tăng trưởng GDP hàng quý liên tục tăng và đạt mức 4,59% trong 9 tháng đầu năm. Quí I, GDP chỉ đạt 3,1%;  quí II, GDP đạt 4,46% và quí III, GDP đạt 5,76%. Tính chung 9 tháng đầu năm GDP của cả nước đạt 4,59%. Chính phủ đang thể hiện niềm tin cao độ sẽ hoàn thành kế hoạch tăng trưởng GDP năm 2009 ở mức 5%-5,5% GDP năm 2009.
Một số dự báo của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức quốc tế cho rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam các năm 2009 và 2010 sẽ ở các mức như sau:

Chính phủ cũng đưa ra tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2006 – 2010 dự kiến đạt khoảng 6,9%/năm. Như vậy, dù theo dự báo nào thì chúng ta cũng thấy rằng Việt Nam không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là 7,5%–8% cho cả giai đoạn và đều thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch này, kể cả theo dự báo/dự kiến ở mức rất cao của Chính phủ Việt Nam. Những hệ lụy của năm 2008, đan xen giữa “nóng” của lạm phát trong 9 tháng đầu năm và “lạnh” của thiểu phát trong 3 tháng cuối năm 2008 đã và vẫn đang thể hiện sự suy giảm kinh tế trong năm 2009 (so cuối các năm với nhau thì rõ ràng là giảm). Nhưng các quý trong năm 2009 đã tăng dần lên và như vậy, niềm tin về nền kinh tế đã và đang qua đáy đã được khẳng định.
Với các dự báo trên, chính phủ đã dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2006 – 2010 dự kiến đạt khoảng 6,9%/ năm, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 5 năm cũng không đạt kế hoạch 16%. Năm 2009 chỉ tiêu này ước đạt âm 9,9% và năm 2010 dự kiến đạt 6%. Hai trong số 7 chỉ tiêu về kinh tế được dự báo vượt yêu cầu là tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội (40% GDP) và tỷ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách Nhà nước (21 - 22%). Nhiều chỉ tiêu về môi trường giảm sút nghiêm trọng [[1]]
Trong nhiều chỉ tiêu, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến 3 chỉ tiêu là mức huy động vốn đầu tư, cán cân thương mại (xuất nhập khẩu) và lạm phát, cụ thể:
-         Việt Nam là nền kinh tế dựa vào xuất khẩu với giá trị xuất khẩu hàng năm chiếm tới trên 70%. Vì vậy, sự biến động trong cán cân thương mại là đặc biệt quan trọng. Nó cũng dựa trên một tiền đề lý luận và thực tiễn rất căn bản của Việt Nam rằng: chừng nào kinh tế thế giới phục hồi thì kinh tế Việt Nam mới phát triển mạnh được, vì khi đó xuất khẩu Việt Nam mới đẩy mạnh được về lượng và giá trị, trong đó giá trị mới là quan trọng. Trong 9 tháng, Xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tăng về lượng, còn giá xuất khẩu chưa tăng do tổng cầu của nền kinh tế thế giới (đặc biệt là Mỹ) chưa phục hồi; do đó, khó khăn vẫn còn nhiều ở phía trước.
 
-         Tăng trưởng cũng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư với tỷ lệ vốn/GDP luôn cao ở mức trên 40% trong những năm gần đây, phản ánh sự phụ thuộc vào vốn trong khi chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đầu tư nhìn chung còn thấp (ICOR cao).
-         Một vấn đề nữa rất quan trọng đã được bàn luận nhiều, là lạm phát. Tháng 8 và tháng 9/2009, chỉ số giá (CPI) đã tăng lên đáng kể, phản ánh mối lo lạm phát do cung tín dụng tăng mạnh (kể cả việc in thêm tiền); do đó, hoàn toàn có cơ sở để lo lắng về lạm phát trong năm 2010. Tính đến hết tháng 09/2009, tín dụng toàn ngành ngân hàng đã tăng 28% [[2]]. Lạm phát luôn là một chỉ số vĩ mô quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt ở các nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam.


Để làm cơ sở cho các phân tích và dự báo tiếp theo, chúng ta điểm qua một số dự báo của NHPT đã khá chính xác từ đầu năm 2009 đến nay, đó là: (i) diễn biến tăng lãi suất trên cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ (sát trần); (ii) khó huy động vốn trái phiếu do cung vượt cầu quá xa trong khi lãi suất tăng nhưng chưa đủ hấp dẫn (phát hành liên tục nhưng không thành công); (iii) tỷ giá tăng không ngừng nghỉ dù mức tăng là không cao nhưng rất chắc chắn, chỉ tăng chứ không có giảm (tỷ giá bình quân liên ngân hàng đến nay tăng khoảng 2,5%, ngày 03/10/2009 đã lại tiếp tục thiết lập đỉnh cao mới về tỷ giá trên thị trường chính thức); (iv) giá vàng vẫn ở mức cao và nó hút/găm giữ một lượng vốn quan trọng của nền kinh tế (giá vàng tăng khoảng 40%).
Vấn đề không phải là ở chỗ chúng ta dự báo đúng hay sai mà khi kiểm nhận lại các diễn biến này trong một quá trình, nó thể hiện rằng các mức về lãi suất, tỷ giá này đang ở mức rất cao trong so sánh tương quan với “trần” mà nhà nước cho phép, phản ánh rằng lực ép về cầu đã căng lên đáng kể trong khi cung chưa được cải thiện và cánh cung bứt phá đang tiếp tục căng lên nhưng vẫn trong sức níu kéo dây cung của các cơ quan quản lý nhà nước (giữ các biên độ và ràng buộc lãi suất danh nghĩa).
2. Dự báo Quý IV/2009 và đầu năm 2010:
2.1. Lãi suất và tỷ giá tăng:
          Theo lý thuyết về kinh tế vĩ mô, thâm hụt trong tài khoản vãng lai đang tăng lên, nó phản ánh sự liên hệ đẳng thức giữa độ lệch tiết kiệm-đầu tư. Cầu về vốn sẽ ngày càng tăng lên, do đó lãi suất tăng lên là điều không tránh khỏi. Trong bối cảnh tín dụng tăng khá cao trong 9 tháng (26%-27%), nó sẽ tạo áp lực phải thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, và như vậy NHNN sẽ phải tính đến bài tăng lãi suất. Để ý rằng lãi suất cơ bản (7%) đã được níu giữ trong 9 tháng nay và trong suốt mấy năm qua, đây là mức lãi suất rất thấp trong lịch sử, khó có thể giữ nguyên mãi và càng khó xuống thấp hơn.
 
Tỷ giá sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn này nhưng đà tăng sẽ không còn mạnh như hồi đầu năm 2009 do các yếu tố về nhập siêu và lạm phát trong nước (ngày 03/10/2009,  NHNN công bố mức mới của tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng (16.995 VND/USD). Theo đó, kỷ lục mới vừa lập hôm 02/10/2009 đã chính thức bị phá vỡ; đẩy tỷ giá USD/VND trên thị trường chính thức lên mức cao nhất trong lịch sử (17.844 VND/USD). Việc tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại lên đến khoảng 18200 VND/USD sẽ rất dễ xảy ra trong năm 2010. [[3]]
2.2. Nhập siêu tăng lên:
          Khi nền kinh tế phục hồi, nhu cầu đầu tư tăng lên sẽ dẫn đến nhập khẩu tăng lên do khả năng của nền kinh tế chưa đáp ứng được cầu này, điều này đặc biệt đúng với Việt Nam, giá trị nhập khẩu luôn ở mức rất cao (trung bình giai đoạn 2006-2008 là hơn 80%GDP), nhập siêu bình quân giai đoạn 2006-2008 là 14% GDP, riêng năm 2008 lên tới gần 20% GDP.
Đặc biệt trong bối cảnh các chỉ số về cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam mới đây lại tụt 5 bậc, việc neo tỷ giá như hiện tại khiến VND bị đánh giá quá cao cũng phương hại đến xuất khẩu. Sự thâm hụt thương mại tăng lên sẽ tiếp tục gia tăng sức ép lên lãi suất nhằm thu hút thêm vốn, tìm kiếm thêm thặng dư trong cán cân vốn để bù đắp thiếu hụt cho cán cân thanh toán.
2.3. Lạm phát tăng lên:
          Do tổng cầu tăng lên, đặc biệt từ 2 yếu tố: cầu tư nhân do thúc đẩy đầu tư và sản xuất và tiêu dùng; chi tiêu của chính phủ cũng tăng lên nhằm đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế (đặc biệt là chi đầu tư) trong bối cảnh các sự kiện chính trị quan trọng đang đến gần; mặc dù nó thúc đẩy tăng GDP song mặt khác nó làm cho sức ép giá cả tăng lên, tạo ra lạm phát cầu kéo.
          Nhập khẩu tăng lên trong bối cảnh giá cả hàng nhập khẩu đang có xu hướng tăng lên do nền kinh tế thế giới phục hồi, tổng cầu tăng; cùng với lộ trình tăng lương tối thiểu, nó sẽ dẫn đến chi phí sản xuất và tiêu dùng trong nước tăng lên (do Việt Nam là nước nhập siêu), góp phần vào lạm phát dưới dạng chi phí đẩy.
          Sự tăng cung tiền nhanh chóng trở lại trong năm 2009 và hệ số nhân tiền tệ sẽ tăng lên khi sản xuất phục hồi sẽ tạo ra áp lực về lạm phát tiền tệ. Riêng với năm 2009, trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng 9 tháng ở mức (28%) [[4]], việc kìm chế tổng mức tăng không quá 30% cả năm là khó đạt được; chúng tôi dự báo rằng tăng trưởng tín dụng cả năm của hệ thống ngân hàng đến hết năm 2009 sẽ vượt con số này.
Tất nhiên, một điều quan trọng là các chỉ số này sẽ tăng nhưng không thể tăng cao trở lại như năm 2007 và đầu năm 2008 vì muốn vậy, nó đòi hỏi phải có sự tích lũy qua một quá trình vài năm. Ở đây chúng tôi không có đủ khả năng để xác định được nó sẽ lên đến bao nhiêu nhưng chúng tôi cho rằng chắc chắn sẽ xảy ra xu hướng tăng này.

[2] http://cafef.vn/20091006042054734CA34/cuoi-quy-32009-tang-truong-tin-dung-la-28.chn
[3] Báo cáo nghiên cứu của chúng tôi ngày 11/08/2009



Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2009

Nới biên độ tỷ giá thì khó quản lý?

Trên mạng có bài đăng ý kiến của  PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, trong đó có nêu:"Mặc dù đã có thời kỳ biên độ giao dịch tỷ giá được duy trì ở khoảng ±7 đến ±10, nhưng biên độ giao càng rộng càng phức tạp cho công tác quản lý vĩ mô. Do đó, thay vì điều chỉnh biên độ, nên điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng theo hướng nới rộng tỷ giá và thu hẹp biên độ sao cho phù hợp với những diễn biến của thị trường."
http://www.stox.vn/stox/view_news_detail/36096/1/186/chua-nen-noi-bien-do-ty-gia.stox

Thật là vui, ở Việt Nam chúng ta nhiều khi cứ không nói thật. Năng lực quản lý yếu kém nên cái gì cũng có khung, có trần (Ví dụ: biên độ tỷ giá, biên độ điều chỉnh giá xăng dầu, khung lãi suất TPCP....); và nói lái đi là khó cho quản lý.
Chẳng lẽ ở các nước người ta không có các loại biên độ này thì khó, thì kinh tế của người ta hỏng bét cả hay sao?! Trình độ quản lý chưa theo kịp yêu cầu nên mới sinh ra những rào cản, bó lại sự luân chuyển các dòng chảy kinh tế, tự hành chính hóa và làm méo mó quy luật phát triển là điều không nên làm.
Quản lý ngoại hối không có nghĩa là phải ban hành ra một cái tỷ giá nào đó để thị trường làm theo. Nếu theo vị chuyên gia khả kính này thì có nghĩa là nên thu hẹp biên độ khi ấy tỷ giá niêm yết giao dịch trên thị trường sẽ càng sát với tỷ giá do SBV công bố; nó càng làm cho tỷ giá được SBV công bố để quản lý càng trở nên méo mó hơn và gần như quay trở về việc nhà nước định giá cả hàng hóa ngày xưa; chẳng lẽ định quản lý cả nền kinh tế của khu vực và thế giới hay sao (vì tỷ giá nó biểu hiện mối quan hệ kinh tế và giá trị tương quan của đồng tiền các nền kinh tế với nhau) khi vẫn khư khư mãi quan điểm này? Buồn thay.

Phương Tây hắt hơi, phương Đông không còn sổ mũi?

Tuần Việt Nam của Vietnamnet có đăng bài "Phương Tây hắt hơi, phương Đông không còn sổ mũi?
http://vietnamnet.vn/thegioi/binhluan/2009/09/869235/

Ở đó có nhắc đến các nền kinh tế mới nổi và các nước phát triển theo 2 cực ĐÔNG-TÂY. Việt Nam mình thì chắc chắn ở phương Đông rồi. Nhưng ngẫm đi nghĩ lại thấy một điều quan trọng là muốn phát triển bền vững hay không, vượt qua khó khăn khủng hoảng hay không điều cốt yếu phải nhờ vào nội lực của mình. Việt Nam đã học tập từ nhiều nước, trong đó đặc biệt là Trung Quốc, nhưng tụt hậu có vẻ đang ngày càng xa hơn. Một nền kinh tế dựa vào tài nguyên và xuất khẩu thô là chủ yếu sẽ không thể bền vững được và NỘI LỰC của Việt Nam chủ yếu là dựa vào xuất khẩu tài nguyên mà thôi, giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu thấp. Như vậy sẽ ngày càng phụ thuộc vào thế giới và không bền vững.
Trong bối cảnh hội nhập thế này, sự liên kết về tài chính giữa các quốc gia sẽ chặt chẽ hơn, và cứ thế không biết chừng mươi năm nữa, nếu nguồn lực con người còn chưa được xem trọng và khơi thông, thì khi bên ngoài hắt hơi, chắc kinh tế ViệtNam thành cảm, sốt và thậm chí còn hơn thế nữa.

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

Điều lạ

Tự nhiên mấy hôm nay thấy rất băn khoăn, không hiểu tại sao báo chí trong nước vốn nhạy tin như thế, vậy mà việc Việt Nam bị đánh tụt hạng chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI), một chỉ số rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập hiện nay, thì lại không hề thấy đưa tin gì. Phải chăng là có ai đó không muốn nhìn vào sự thật.
Chiều 11/9/2009, Diễn đàn kinh tế thế giới WEF cũng đã công bố về xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nước, theo đó ViệtNam tiếp tục tụt 5 bậc, từ vị trí 70 xuống 75, trước đó Việt Nam tụt từ 64 năm 2006 xuống 68 năm 2007, xuống 70 năm 2008.
http://www.weforum.org/en/initiatives/gcp/Global%20Competitiveness%20Report/index.htm 

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2009

Bình luận thị trường tháng 09/2009

MỘT SỐ BÌNH LUẬN VỀ TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ QUA 8 THÁNG 2009

(11/09/2009)

Trần Công Hòa
-----------------

1. Xuất nhập khẩu, nỗi lo từ cán cân thanh toán và tỷ giá

Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nặng vào xuất nhập khẩu, xuất khẩu chiếm khoảng 70%-80% GDP, 60% nguyên liệu cho sản xuất để xuất khẩu là từ nhập khẩu; tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu hàng năm chiếm gần 90% GDP. Do vậy, vấn đề xuất nhập khẩu có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh liên tục là nước nhập siêu trong hàng thập kỷ qua, tỷ giá và cán cân thanh toán luôn là nỗi lo thường trực đối với các nhà quản lý kinh tế vĩ mô.

8 tháng năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 89% cùng kỳ năm ngoái, nhập khẩu bằng 74%; Nhập siêu 8 tháng là 5,1 tỷ USD; nếu loại trừ xuất khẩu vàng (do đã “trót” tính vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong Quý I) thì nhập siêu trong 8 tháng là 7,6 tỷ USD, tương ứng khoảng 5 tuần nhập khẩu của Việt Nam, bằng 20% kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng (Hình 1). Cũng chính từ sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai (mà chủ yếu do nhập siêu), nó cho thấy rằng có sự thâm hụt giữa đầu tư và tiết kiệm (saving-investment gap).

Mặc dù được hỗ trợ từ giải ngân FDI với số vốn 6,5 tỷ USD trong 8 tháng qua (bằng 91,5% so với cùng kỳ), chúng tôi cho rằng sẽ xuất hiện cả thâm hụt trong cán cân thương mại và cán cân vốn do giải ngân FDI giảm và lượng kiều hối giảm sút vì khủng hoảng (NHNN ước tính kiều hối năm 2009 sẽ sụt giảm khoảng 20% so với năm 2008 [[1]]); cũng chính vì vậy, lo ngại về tỷ giá VND/USD sẽ tiếp tục tăng lên là hoàn toàn có cơ sở; tình trạng 2 tỷ giá trên thị trường Việt Nam là biểu hiện rất rõ nét về vấn đề này (độ lệch giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trần theo quy định của NHNN hiện nay vào khoảng 3%). Cũng vì thế, huy động TPCP bằng ngoại tệ cũng chính là để góp phần bù đắp thâm hụt ngân sách và tăng dự trữ ngoại hối để bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán.

Chính phủ, khi huy động USD sẽ kéo theo áp lực phải duy trì sự ổn định về tỷ giá để hạn chế gánh nặng trả nợ USD trong tương lai; do đó sẽ phải kiềm chế tăng tỷ giá và tạo một sự ổn định nhất định. Nhưng nếu không tăng tỷ giá thì xuất khẩu khó bứt phá được, đây là vấn đề gai góc đối với các nhà quản lý hiện nay.

Trên một phương diện khác, với dự báo tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vào khoảng 7%, lãi suất đồng VND trên thị trường Việt Nam sử dụng để xem xét bình quân là 9%, lạm phát của Mỹ (tháng 7 là -1,43%, tháng 8 là -2.1% [[2]]) và lãi suất đồng USD trên thị trường nước Mỹ giả định ở mức cơ bản là 0,25% thì với ước lượng theo hiệu ứng fisher quốc tế và đánh trội để xác định xu hướng, đồng VND phải yếu đi thêm ít nhất khoảng 3% nữa; với tính toán này, chúng tôi giữ nguyên dự báo rằng tỷ giá VND sẽ phải tăng lên khoảng 18.300 đồng/USD trong giai đoạn này thì mới hợp lý; nó sẽ có tác dụng kích thích xuất khẩu (cuối năm 2009 có thể 18.500-19.000 VND/USD).

Gần đây, một quan chức cấp rất cao của NHNN cho rằng nếu tăng tỷ giá thì tăng gánh nặng trả nợ đối với các khoản huy động ngoại tệ [[3]]. Về lý thuyết cơ bản thì đúng là như thế, tuy nhiên điều quan trọng là trong thực tế, khi điều chỉnh tỷ giá về mức hợp lý sẽ:

(i) kích thích được xuất khẩu; và

(ii) làm hài hòa về chính sách quản lý ngoại hối thì sẽ kích thích được các dòng lưu chuyển tiền tệ góp phần nâng cao tính hiệu quả phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế;

2 yếu tố quan trọng này sẽ củng cố và tăng được nguồn thu để góp phần trả nợ; vấn đề đặt ra là nên tăng tỷ giá đến mức nào mà thôi, chứ không phải là “khư khư” theo lý thuyết một chiều như vậy.

2. Bội chi ngân sách và gánh nặng trả nợ

- Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng; mức thâm hụt đã lên lớn nhất trong vòng nhiều năm qua, năm 2005: 40,7 ngàn tỉ đồng; năm 2006: 48,5 ngàn tỉ đồng; năm 2007: 56,5 ngàn tỉ đồng; năm 2008: 66,2 ngàn tỉ đồng. Năm 2009, mức bội chi lên đến 7% GDP không thể không mang lại những quan ngại sâu sắc về ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. (Hình 2)

Bội chi ngân sách lớn được bù đắp bằng cách vay nợ, mặc dù con số chính thức đến nay vẫn chưa được công bố song người ta ước tính được nợ nước ngoài hiện nay của Việt Nam là khá cao, cụ thể như sau [[4]]:

Một số nguồn tin khác cho rằng nợ của Việt Nam hiện khoảng 40 tỷ USD [[5]][[6]] và vẫn trong giới hạn an toàn theo chuẩn quốc tế. Kể cả với số liệu này, tính trung bình mỗi người dân nợ khoảng 400-500USD, nó bằng gần 50% thu nhập bình quân đầu người/năm. Xét theo tiêu chí này thì là không hề nhỏ bé. Đáng lưu ý là ngày 30/06/2009, Fitch ratings đã hạ mức tín nhiệm về nợ dài hạn bằng nội tệ của Việt Nam xuống BB-, nó đồng nghĩa với hạ mức tín nhiệm về TPCP của chúng ta.

Cùng với điều đó, Việt Nam đã bị đánh tụt một bậc trong xếp hạng môi trường kinh doanh 2010; đây là năm thứ hai liên tiếp, Việt Nam giảm thứ hạng so với năm trước đó (bảng xếp hạng năm 2008, Việt Nam đứng thứ 91; năm 2009 xếp hạng 92). Trong 10 chỉ số thành phần được cho điểm, chỉ có 2 chỉ số thăng hạng (vay vốn tín dụng và thực thi hợp đồng), còn lại đều tụt hạng so với xếp hạng được công bố năm ngoái. Báo cáo Môi trường kinh doanh dựa trên 10 chỉ số: thành lập doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng, tuyển dụng và sa thải lao động, đăng ký tài sản, vay vốn tín dụng, bảo vệ nhà đầu tư, nộp thuế, thương mại quốc tế, thực thi hợp đồng và giải thể doanh nghiệp [[7]]. Chúng tôi cho rằng các vấn đề về cấp phép, bảo vệ nhà đầu tư (đặc biệt lưu ý kinh tế biển và các ngành gắn liền với nguồn lợi từ kinh tế biển), thương mại quốc tế và phá sản doanh nghiệp là những vấn đề lớn mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Cũng từ đó, khó có thể không lo ngại về các dòng vốn FDI và FII trong những năm tiếp theo, nó sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới cán cân vốn của Việt Nam.

Chiều 11/9/2009, Diễn đàn kinh tế thế giới WEF cũng đã công bố về xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nước, theo đó ViệtNam tiếp tục tụt 5 bậc, từ vị trí 70 xuống 75, trước đó Việt Nam tụt từ 64 năm 2006 xuống 68 năm 2007, xuống 70 năm 2008 [[8]]

Các đánh giá này phản ánh rằng kỳ vọng phát triển trong những năm tới đối với nền kinh tế là kém đi; nó phần nào được thể hiện ở TPCP, lượng phát hành đạt được rất ít ỏi và lãi suất trần liên tục tăng; nghiên cứu diễn biến đường cong lãi suất [[9]] cho thấy bắt đầu tư tháng 7 đến nay, đường cong lãi suất (yeild curves) của TPCP và lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng đang ở xu hướng đi lên. Với cách nhìn của nhà phân tích kỹ thuật (TA) thì các đường lãi suất này đang dao động trong một kênh hướng lên khá chắc chắn. (Hình 3)


3. Phát hành trái phiếu chính phủ:

Trong 8 tháng, chính phủ đã tổ chức 2 đợt phát hành TPCP bằng ngoại tệ, tuy nhiên kết quả đạt được không thực sự như mong muốn; đợt 1 chỉ đạt được 76,7% kế hoạch, đợt 2 chỉ đạt được 70,8% kế hoạch.

Điều đáng chú ý là trước khi phát hành đợt 2, đã diễn ra hàng loạt các diễn biến mang tính “vận động” và đưa mặt bằng lãi suất đồng USD xuống rất thấp, tạo điều kiện rất thuận lợi để huy động được USD với chi phí thấp. Kết quả cho thấy sự vận động này phần nào đã thành công, đặc biệt với lô phát hành đầu tiên trong đợt 2 (kỳ hạn 1 năm, ngày 24/08/2009); lãi suất đạt được ở mức thấp hơn so với TPCP cùng kỳ hạn chỉ phát hành trước đó ít tháng. Dù vậy vẫn diễn ra sự trái chiều trong lãi suất trúng thầu giữa 2 đợt này, kỳ hạn 1 năm của đợt 2 có lãi suất thấp hơn nhưng các kỳ hạn còn lại đều có lãi suất trùng thầu cao hơn so với đợt 1; phần nào phản ánh sự nhìn nhận của các nhà đầu tư trong triển vọng trung hạn (chúng ta sẽ bàn thêm về triển vọng này ở phần sau).

Tuy nhiên, lãi suất TPCP tiếp tục đặt ra những câu hỏi khiến các nhà đầu tư và thị trường từ đó phát sinh thêm những động thái mới. Trong khi lãi suất huy động USD cùng kỳ hạn trên thị trường (tháng 8/2009) chỉ giao động khoảng 1,5%-2%/năm thì lãi suất huy động TPCP (độ uy tín cao nhất trên thị trường) có mức lãi suất cao hơn rất nhiều (Bảng 1); rõ ràng là sự thiếu vốn NSNN đã phải làm lãi suất TPCP dâng cao hơn mới có kết quả. Nhưng lãi suất dâng cao vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư và kết quả đạt được không thật sự cao. Chính vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng diễn biến lãi suất TPCP ngoại tệ đợt này đã góp phần về phương diện tâm lý thúc đẩy lãi suất huy động USD dâng cao, tất nhiên nó bắt nguồn từ nhu cầu ngoại tệ dâng cao, từ cán cân vốn và thanh toán; các NHTM hạn chế bán ra với tỷ giá trong biên độ hiện tại.

Cũng trong đợt phát hành TPCP lần này (đợt 2), các NHTM lớn đều đứng ngoài cuộc và các giải thích của các ngân hàng này gần đây đều cho rằng do lãi suất chưa đáp ứng kỳ vọng, nó phản ánh phần lớn kỳ vọng của thị trường rằng lãi suất USD trong thời gian tới đây sẽ tăng lên. Đến nay, lãi suất USD trên thị trường đã tăng rõ rệt và đã xuất hiện mức lãi suất tới trên 4%/năm [[10]]. Nhu cầu vay ngoại tệ của doanh nghiệp cũng đã tăng lên. Trong tháng 7 và 8 vừa qua, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ (chủ yếu bằng USD) đã tăng khá nhanh; lần lượt tăng 1,2% và 1,52%. Lãi suất huy động USD từ cuối tháng 8 đến nay cũng đã tăng khá mạnh; một số ngân hàng đã đẩy mức cao nhất lên đến 4% - 4,15%/năm [[11]]. Chúng tôi cũng đồng nhất với quan điểm cho rằng lãi suất USD trong triển vọng từ nay đến đầu 2010 sẽ tiếp tục tăng lên do nhu cầu nhập khẩu tăng lên khi nền kinh tế phục hồi.

Do kết quả đấu thầu TPCP bằng ngoại tệ đạt thấp nên việc 4 NHTM lớn nhất sẽ “ được tự nguyện” mua trong các đợt tiếp theo để đảm bảo sự thành công của kế hoạch 1 tỷ USD sẽ xảy ra trong cuối năm 2009 này (chúng tôi giữ nguyên nhận định này như báo cáo trước đây). Chính phủ dự kiến rằng số tiền này sẽ tài trợ cho một số dự án lớn trọng điểm quốc gia, nhưng xen trong nó (ví dụ như vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa dùng) là có thể dùng vào các mục đích cấp thiết hơn cho nền kinh tế, chẳng hạn như: tăng dự trữ ngoại hối để bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán, nhập khẩu các phương tiện đặc chủng phục vụ cho an ninh quốc phòng… Nếu có thì đó cũng là điều cần thiết. Vấn đề có thể phát sinh thêm là:

- Chính phủ có thể bán ngoại tệ cho NHNN, làm tăng cung tiền VND, tác động đến lạm phát trong 2010.

- Hút USD vào và dùng cho nhập khẩu của Chính phủ, làm giảm cung USD trên thị trường trong nước, dẫn đến tăng tỷ giá và lãi suất USD trên thị trường trong nước.

Cũng chính những vấn đề này mà một số quốc gia gần đây đã kêu gọi giảm kích cầu bằng chi tiêu công (giảm chi NSNN).

Đối với TPCP bằng nội tệ, trong hơn 8 tháng qua đã thực hiện 72 đợt đấu thầu TPCP bằng nội tệ với tổng giá trị TPCP đưa ra đấu thầu là 47.800 tỷ đồng, kết quả đạt được 2.306 tỷ đồng, tương ứng với 4,8% khối lượng đưa ra đấu thầu. Bộ Tài chính đã hàng chục lần điều chỉnh lãi suất trần của các TPCP với các kỳ hạn và nhà phát hành khác nhau; diễn biến lãi suất trần TPCP và lãi suất kỳ vọng như “trò chơi đuổi bắt”, mỗi khi huy động không được thì lại tăng lãi suất trần và lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư lại tăng lên; nó phản ánh nỗ lực huy động vốn của cơ quan chủ quản trong khi khả năng đánh giá, điều tiết và ổn định thị trường còn rất hạn chế. Tính trung bình trong 72 phiên đấu thầu vừa qua, lãi suất kỳ vọng bình quân luôn cao hơn lãi suất trần 1,06%.

Một vấn đề đặt ra là hiện tại có quá nhiều tổ chức phát hành TPCP hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, đó là: KBNN, VEC, VBSP, VDB, HIFU. Nó làm loãng khả năng huy động cho NSNN; với mỗi trái phiếu kể cả cùng kỳ hạn cho các tổ chức này lại có mức lãi suất trần khác nhau, điều này càng làm khó hơn cho cơ quan quản lý (Bộ Tài chính), dẫn đến sự “méo mó” công cụ nợ đòi hỏi cao về tính chuẩn này của thị trường.

(Phụ lục kết quả đấu thầu TPCP kèm theo)

4. Tăng trưởng tín dụng:

Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng tháng 8 tiếp tục tăng; trong đó cho vay bằng VND đã chậm lại, bằng USD tiếp tục mạnh lên. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng đối với nền kinh tế tháng 8/2009 ước tăng 1,75% so với cuối tháng trước; Như vậy, tổng dư nợ tín dụng qua 8 tháng đã tăng tới 24,8% so với cuối năm 2008.

Trong báo cáo giữa tháng 8/2008, chúng tôi đã phân tích các kịch bản về tăng trưởng tín dụng khi NHNN công bố kiềm chế tốc độ tăng dư nợ tín dụng ở mức 25%-27%, theo đó chúng tôi khẳng định rằng nó không khả thi và dự báo rằng NHNN sẽ phải điều chỉnh tốc độ này, nay đã được điều chỉnh mức tăng cả năm trở lại là 30%. Tuy nhiên, với mức tăng 8 tháng (24,8%), dư dịa tăng tín dụng còn lại chỉ là 5,2%, tương ứng với bình quân cho 4 tháng cuối năm là 1,3%, đây là mức rất nhỏ bé và khó đạt được, trong bối cảnh nhu cầu vốn thường tăng cao vào cuối năm, đặc biệt khi đang dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.

Hệ thống ngân hàng vẫn đang trong tình trạng chưa vững chắc về thanh khoản khi lãi suất liên ngân hàng vẫn đang tăng; quy định mới về tỷ lệ cho vay dài hạn bằng vốn ngắn hạn khiến rất nhiều NHTM phải tăng lãi suất huy động ngắn hạn [[12]] cũng phần nào minh chứng điều này. Hiện tượng này cho thấy một số vấn đề quan trọng:

+ Các NHTM sẽ hạn chế cho vay trung dài hạn, => hạn chế vốn đầu tư đối với nền kinh tế (mà điều quan trọng đối với tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua là nhờ vốn), do vậy khả năng tăng trưởng GDP sẽ bị kìm hãm.

+ Thanh khoản của các NHTM trong nước là chưa thực sự bền vững.

+ Người gửi tiền do lo ngại lãi suất tăng nên sẽ ưa thích gửi kỳ hạn ngắn hơn; do vậy càng khuyến khích các NHTM tiếp tục chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”; và các người ta sẽ có thiên hướng kinh doanh ngắn hạn hơn là dài hạn vào các ngành có kỳ vọng tỷ suất lợi nhuận nhanh và cao hơn (ví dụ: vàng, chứng khoán, bất động sản...)

5. Triển vọng 2010:

Trong bối cảnh nền kinh tế bắt đầu ổn định lại để phục hồi, chúng tôi nhận thấy nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp đang gia tăng nhanh chóng để đón bắt cơ hội sau khủng hoảng kinh tế; nhưng sự khát vốn này đang hạn chế các doanh nghiệp. Tổng hợp các vấn đề về tăng trưởng tín dụng và lãi suất như trên, chúng tôi dự báo:

- Lãi suất TPCP sẽ tiếp tục nhích lên và sang năm 2010, mặt bằng về lãi suất huy động và cho vay sẽ cao hơn so với hiện nay. Nó tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp có hệ số nợ lớn.

- Nhu cầu vay USD của các doanh nghiệp cũng đang và sẽ tiếp tục tăng, tỷ giá VND/USD sẽ tiếp tục tăng (đồng VND yếu đi), tín dụng USD sẽ tăng lên và lãi suất USD sẽ tiếp tục nhích lên. (Lý do bổ sung: Yếu tố bù lãi suất kích cầu bây giờ không còn hấp dẫn như trước nữa).

Đối với chứng khoán:

+ Do chi phí trả lãi tăng lên nên kết quả kinh doanh quý IV có thể không bứt phá mạnh, nhưng kết quả chung cả năm 2009 nhìn chung vẫn khả quan do nền kinh tế phục hồi và kết quả đầu năm 2009 tốt nhờ chi phí tín dụng thấp do kích cầu bù lại. Nhưng kết quả kinh doanh quý I/2010 sẽ khó thực sự tốt do chi phí lãi tín dụng tăng vì mặt bằng lãi suất cao hơn, cạnh tranh với hàng hóa quốc tế (đặc biệt Trung Quốc) sẽ mạnh mẽ hơn sau khủng hoảng.

+ Luồng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCKVN sẽ không thực sự cao do nền kinh tế Việt Nam có những yếu tố rất nhạy cảm tác động vào. Các doanh nghiệp thủy sản (trừ cá da trơn) trong triển vọng dài hạn (lưu ý là dài hạn) sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn, đặc biệt là các hoạt động khai thác và đánh bắt tài nguyên biển do “nền kinh tế biển” của Việt Nam bị “hạn chế” về biển bởi các yếu tố đến từ phương Bắc.

+ Cũng chính vì các NHTM đang hạn chế cho vay dài hạn và chủ yếu huy động ngắn cho vay ngắn nên động lực cho tăng trưởng trung -dài hạn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cổ phẩn nói riêng sẽ bị hạn chế. Vì thế, nếu các cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế và cơ cấu vốn của doanh nghiệp không vững thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ khó ổn định. Do vậy, chúng tôi khuyến nghị chỉ lựa chọn các doanh nghiệp có nền tảng tài chính và cấu trúc nợ thật vững; tăng nhanh vòng quay vốn đầu tư chứng khoán và nhìn chung hạn chế đầu tư dài, trường hợp ngành khai thác khoáng sản là một ngoại lệ.

+ Các doanh nghiệp về khai thác khoáng sản, vận tải biển (kể cả cảng biển) và năng lượng sẽ có nhiều lợi thế do nền kinh tế phục hồi, nhu cầu về tài nguyên năng lượng và vận tải hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng.

Đối với nợ quốc gia: Thật khó để phân tích kỹ càng vì hiện tại nền kinh tế của chúng ta chưa minh bạch, các chỉ số vĩ mô này không được công bố (trong khi tại các nước phát triển công bố chính thức đều đặn định kỳ), nhưng một điều dễ nhận thấy là:

- Kỳ vọng về tăng trưởng để đạt được các mục tiêu kinh tế-chính trị trước năm 2011 là rất cao (đây là năm có sự kiện rất quan trọng về chính trị, tạm gọi là bầu cử), do đó phải tạo động lực cho nó.

- Hàm sản xuất Cobb Douglas (Y=f(K, L, Tf)) chỉ ra rằng nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải dựa vào yếu tố Tf (năng suất tổng hợp, bao gồm công nghệ, chất lượng nhân lực, quản trị…) chứ không thể chỉ dựa vào K (vốn) và L (lao động). Việt Nam chúng ta mới chỉ chủ yếu dựa vào K và L mà thôi; thể hiện ở: (i) tăng mạnh vốn đầu tư để đạt mục tiêu tăng trưởng; (ii) lao động giá rẻ. Nhưng vốn không phải là vô hạn do sự ràng buộc về các tỷ lệ nợ theo thông lệ và giới hạn về phân bổ danh mục đầu tư của các nhà đầu tư, tiền cũng không thể in mãi và đặc biệt là nó dễ nảy sinh tham nhũng mạnh hơn. Thời của lao động giá rẻ với Việt Nam (ví dụ tiêu biểu là ngành dệt may và da giày) sẽ qua đi do sự dịch chuyển về phân bổ lao động thế giới sang các nước khác có mức thu nhập thấp hơn; do thu nhập đầu người của Việt Nam đang tăng lên, lương tối thiểu cũng tăng lên, môi trường kinh doanh kém hấp dẫn hơn. Trong bối cảnh hiệu quả đầu tư của Việt Nam chưa cao (ICOR khoảng trên 5), để đạt được các mục tiêu kinh tế trước 2011 chỉ còn cách là tăng vốn (K). Do vậy chi tiêu công sẽ không thể thấp đi (xét về tỷ lệ), và như vậy nợ quốc gia cũng chưa thể thấp đi được. Nền kinh tế sẽ vẫn “khát” vốn tựa thuở nào và lãi suất không thể giữ mặt bằng này mãi được.

- Sang năm 2010, một số vấn đề cần cân nhắc kỹ khi lựa chọn đầu tư, các yếu tố có thể tăng (vì cả ý muốn chủ quan và nguyên nhân khách quan), đó là: (i) Thuế và các loại phí; (ii) giá năng lượng, bao gồm cả điện và xăng dầu; (iii) lạm phát.

---------------


[9] Nguồn số liệu: Adb.org