Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2009

Bình luận thị trường tháng 09/2009

MỘT SỐ BÌNH LUẬN VỀ TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ QUA 8 THÁNG 2009

(11/09/2009)

Trần Công Hòa
-----------------

1. Xuất nhập khẩu, nỗi lo từ cán cân thanh toán và tỷ giá

Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nặng vào xuất nhập khẩu, xuất khẩu chiếm khoảng 70%-80% GDP, 60% nguyên liệu cho sản xuất để xuất khẩu là từ nhập khẩu; tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu hàng năm chiếm gần 90% GDP. Do vậy, vấn đề xuất nhập khẩu có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh liên tục là nước nhập siêu trong hàng thập kỷ qua, tỷ giá và cán cân thanh toán luôn là nỗi lo thường trực đối với các nhà quản lý kinh tế vĩ mô.

8 tháng năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 89% cùng kỳ năm ngoái, nhập khẩu bằng 74%; Nhập siêu 8 tháng là 5,1 tỷ USD; nếu loại trừ xuất khẩu vàng (do đã “trót” tính vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong Quý I) thì nhập siêu trong 8 tháng là 7,6 tỷ USD, tương ứng khoảng 5 tuần nhập khẩu của Việt Nam, bằng 20% kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng (Hình 1). Cũng chính từ sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai (mà chủ yếu do nhập siêu), nó cho thấy rằng có sự thâm hụt giữa đầu tư và tiết kiệm (saving-investment gap).

Mặc dù được hỗ trợ từ giải ngân FDI với số vốn 6,5 tỷ USD trong 8 tháng qua (bằng 91,5% so với cùng kỳ), chúng tôi cho rằng sẽ xuất hiện cả thâm hụt trong cán cân thương mại và cán cân vốn do giải ngân FDI giảm và lượng kiều hối giảm sút vì khủng hoảng (NHNN ước tính kiều hối năm 2009 sẽ sụt giảm khoảng 20% so với năm 2008 [[1]]); cũng chính vì vậy, lo ngại về tỷ giá VND/USD sẽ tiếp tục tăng lên là hoàn toàn có cơ sở; tình trạng 2 tỷ giá trên thị trường Việt Nam là biểu hiện rất rõ nét về vấn đề này (độ lệch giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trần theo quy định của NHNN hiện nay vào khoảng 3%). Cũng vì thế, huy động TPCP bằng ngoại tệ cũng chính là để góp phần bù đắp thâm hụt ngân sách và tăng dự trữ ngoại hối để bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán.

Chính phủ, khi huy động USD sẽ kéo theo áp lực phải duy trì sự ổn định về tỷ giá để hạn chế gánh nặng trả nợ USD trong tương lai; do đó sẽ phải kiềm chế tăng tỷ giá và tạo một sự ổn định nhất định. Nhưng nếu không tăng tỷ giá thì xuất khẩu khó bứt phá được, đây là vấn đề gai góc đối với các nhà quản lý hiện nay.

Trên một phương diện khác, với dự báo tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vào khoảng 7%, lãi suất đồng VND trên thị trường Việt Nam sử dụng để xem xét bình quân là 9%, lạm phát của Mỹ (tháng 7 là -1,43%, tháng 8 là -2.1% [[2]]) và lãi suất đồng USD trên thị trường nước Mỹ giả định ở mức cơ bản là 0,25% thì với ước lượng theo hiệu ứng fisher quốc tế và đánh trội để xác định xu hướng, đồng VND phải yếu đi thêm ít nhất khoảng 3% nữa; với tính toán này, chúng tôi giữ nguyên dự báo rằng tỷ giá VND sẽ phải tăng lên khoảng 18.300 đồng/USD trong giai đoạn này thì mới hợp lý; nó sẽ có tác dụng kích thích xuất khẩu (cuối năm 2009 có thể 18.500-19.000 VND/USD).

Gần đây, một quan chức cấp rất cao của NHNN cho rằng nếu tăng tỷ giá thì tăng gánh nặng trả nợ đối với các khoản huy động ngoại tệ [[3]]. Về lý thuyết cơ bản thì đúng là như thế, tuy nhiên điều quan trọng là trong thực tế, khi điều chỉnh tỷ giá về mức hợp lý sẽ:

(i) kích thích được xuất khẩu; và

(ii) làm hài hòa về chính sách quản lý ngoại hối thì sẽ kích thích được các dòng lưu chuyển tiền tệ góp phần nâng cao tính hiệu quả phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế;

2 yếu tố quan trọng này sẽ củng cố và tăng được nguồn thu để góp phần trả nợ; vấn đề đặt ra là nên tăng tỷ giá đến mức nào mà thôi, chứ không phải là “khư khư” theo lý thuyết một chiều như vậy.

2. Bội chi ngân sách và gánh nặng trả nợ

- Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng; mức thâm hụt đã lên lớn nhất trong vòng nhiều năm qua, năm 2005: 40,7 ngàn tỉ đồng; năm 2006: 48,5 ngàn tỉ đồng; năm 2007: 56,5 ngàn tỉ đồng; năm 2008: 66,2 ngàn tỉ đồng. Năm 2009, mức bội chi lên đến 7% GDP không thể không mang lại những quan ngại sâu sắc về ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. (Hình 2)

Bội chi ngân sách lớn được bù đắp bằng cách vay nợ, mặc dù con số chính thức đến nay vẫn chưa được công bố song người ta ước tính được nợ nước ngoài hiện nay của Việt Nam là khá cao, cụ thể như sau [[4]]:

Một số nguồn tin khác cho rằng nợ của Việt Nam hiện khoảng 40 tỷ USD [[5]][[6]] và vẫn trong giới hạn an toàn theo chuẩn quốc tế. Kể cả với số liệu này, tính trung bình mỗi người dân nợ khoảng 400-500USD, nó bằng gần 50% thu nhập bình quân đầu người/năm. Xét theo tiêu chí này thì là không hề nhỏ bé. Đáng lưu ý là ngày 30/06/2009, Fitch ratings đã hạ mức tín nhiệm về nợ dài hạn bằng nội tệ của Việt Nam xuống BB-, nó đồng nghĩa với hạ mức tín nhiệm về TPCP của chúng ta.

Cùng với điều đó, Việt Nam đã bị đánh tụt một bậc trong xếp hạng môi trường kinh doanh 2010; đây là năm thứ hai liên tiếp, Việt Nam giảm thứ hạng so với năm trước đó (bảng xếp hạng năm 2008, Việt Nam đứng thứ 91; năm 2009 xếp hạng 92). Trong 10 chỉ số thành phần được cho điểm, chỉ có 2 chỉ số thăng hạng (vay vốn tín dụng và thực thi hợp đồng), còn lại đều tụt hạng so với xếp hạng được công bố năm ngoái. Báo cáo Môi trường kinh doanh dựa trên 10 chỉ số: thành lập doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng, tuyển dụng và sa thải lao động, đăng ký tài sản, vay vốn tín dụng, bảo vệ nhà đầu tư, nộp thuế, thương mại quốc tế, thực thi hợp đồng và giải thể doanh nghiệp [[7]]. Chúng tôi cho rằng các vấn đề về cấp phép, bảo vệ nhà đầu tư (đặc biệt lưu ý kinh tế biển và các ngành gắn liền với nguồn lợi từ kinh tế biển), thương mại quốc tế và phá sản doanh nghiệp là những vấn đề lớn mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Cũng từ đó, khó có thể không lo ngại về các dòng vốn FDI và FII trong những năm tiếp theo, nó sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới cán cân vốn của Việt Nam.

Chiều 11/9/2009, Diễn đàn kinh tế thế giới WEF cũng đã công bố về xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nước, theo đó ViệtNam tiếp tục tụt 5 bậc, từ vị trí 70 xuống 75, trước đó Việt Nam tụt từ 64 năm 2006 xuống 68 năm 2007, xuống 70 năm 2008 [[8]]

Các đánh giá này phản ánh rằng kỳ vọng phát triển trong những năm tới đối với nền kinh tế là kém đi; nó phần nào được thể hiện ở TPCP, lượng phát hành đạt được rất ít ỏi và lãi suất trần liên tục tăng; nghiên cứu diễn biến đường cong lãi suất [[9]] cho thấy bắt đầu tư tháng 7 đến nay, đường cong lãi suất (yeild curves) của TPCP và lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng đang ở xu hướng đi lên. Với cách nhìn của nhà phân tích kỹ thuật (TA) thì các đường lãi suất này đang dao động trong một kênh hướng lên khá chắc chắn. (Hình 3)


3. Phát hành trái phiếu chính phủ:

Trong 8 tháng, chính phủ đã tổ chức 2 đợt phát hành TPCP bằng ngoại tệ, tuy nhiên kết quả đạt được không thực sự như mong muốn; đợt 1 chỉ đạt được 76,7% kế hoạch, đợt 2 chỉ đạt được 70,8% kế hoạch.

Điều đáng chú ý là trước khi phát hành đợt 2, đã diễn ra hàng loạt các diễn biến mang tính “vận động” và đưa mặt bằng lãi suất đồng USD xuống rất thấp, tạo điều kiện rất thuận lợi để huy động được USD với chi phí thấp. Kết quả cho thấy sự vận động này phần nào đã thành công, đặc biệt với lô phát hành đầu tiên trong đợt 2 (kỳ hạn 1 năm, ngày 24/08/2009); lãi suất đạt được ở mức thấp hơn so với TPCP cùng kỳ hạn chỉ phát hành trước đó ít tháng. Dù vậy vẫn diễn ra sự trái chiều trong lãi suất trúng thầu giữa 2 đợt này, kỳ hạn 1 năm của đợt 2 có lãi suất thấp hơn nhưng các kỳ hạn còn lại đều có lãi suất trùng thầu cao hơn so với đợt 1; phần nào phản ánh sự nhìn nhận của các nhà đầu tư trong triển vọng trung hạn (chúng ta sẽ bàn thêm về triển vọng này ở phần sau).

Tuy nhiên, lãi suất TPCP tiếp tục đặt ra những câu hỏi khiến các nhà đầu tư và thị trường từ đó phát sinh thêm những động thái mới. Trong khi lãi suất huy động USD cùng kỳ hạn trên thị trường (tháng 8/2009) chỉ giao động khoảng 1,5%-2%/năm thì lãi suất huy động TPCP (độ uy tín cao nhất trên thị trường) có mức lãi suất cao hơn rất nhiều (Bảng 1); rõ ràng là sự thiếu vốn NSNN đã phải làm lãi suất TPCP dâng cao hơn mới có kết quả. Nhưng lãi suất dâng cao vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư và kết quả đạt được không thật sự cao. Chính vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng diễn biến lãi suất TPCP ngoại tệ đợt này đã góp phần về phương diện tâm lý thúc đẩy lãi suất huy động USD dâng cao, tất nhiên nó bắt nguồn từ nhu cầu ngoại tệ dâng cao, từ cán cân vốn và thanh toán; các NHTM hạn chế bán ra với tỷ giá trong biên độ hiện tại.

Cũng trong đợt phát hành TPCP lần này (đợt 2), các NHTM lớn đều đứng ngoài cuộc và các giải thích của các ngân hàng này gần đây đều cho rằng do lãi suất chưa đáp ứng kỳ vọng, nó phản ánh phần lớn kỳ vọng của thị trường rằng lãi suất USD trong thời gian tới đây sẽ tăng lên. Đến nay, lãi suất USD trên thị trường đã tăng rõ rệt và đã xuất hiện mức lãi suất tới trên 4%/năm [[10]]. Nhu cầu vay ngoại tệ của doanh nghiệp cũng đã tăng lên. Trong tháng 7 và 8 vừa qua, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ (chủ yếu bằng USD) đã tăng khá nhanh; lần lượt tăng 1,2% và 1,52%. Lãi suất huy động USD từ cuối tháng 8 đến nay cũng đã tăng khá mạnh; một số ngân hàng đã đẩy mức cao nhất lên đến 4% - 4,15%/năm [[11]]. Chúng tôi cũng đồng nhất với quan điểm cho rằng lãi suất USD trong triển vọng từ nay đến đầu 2010 sẽ tiếp tục tăng lên do nhu cầu nhập khẩu tăng lên khi nền kinh tế phục hồi.

Do kết quả đấu thầu TPCP bằng ngoại tệ đạt thấp nên việc 4 NHTM lớn nhất sẽ “ được tự nguyện” mua trong các đợt tiếp theo để đảm bảo sự thành công của kế hoạch 1 tỷ USD sẽ xảy ra trong cuối năm 2009 này (chúng tôi giữ nguyên nhận định này như báo cáo trước đây). Chính phủ dự kiến rằng số tiền này sẽ tài trợ cho một số dự án lớn trọng điểm quốc gia, nhưng xen trong nó (ví dụ như vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa dùng) là có thể dùng vào các mục đích cấp thiết hơn cho nền kinh tế, chẳng hạn như: tăng dự trữ ngoại hối để bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán, nhập khẩu các phương tiện đặc chủng phục vụ cho an ninh quốc phòng… Nếu có thì đó cũng là điều cần thiết. Vấn đề có thể phát sinh thêm là:

- Chính phủ có thể bán ngoại tệ cho NHNN, làm tăng cung tiền VND, tác động đến lạm phát trong 2010.

- Hút USD vào và dùng cho nhập khẩu của Chính phủ, làm giảm cung USD trên thị trường trong nước, dẫn đến tăng tỷ giá và lãi suất USD trên thị trường trong nước.

Cũng chính những vấn đề này mà một số quốc gia gần đây đã kêu gọi giảm kích cầu bằng chi tiêu công (giảm chi NSNN).

Đối với TPCP bằng nội tệ, trong hơn 8 tháng qua đã thực hiện 72 đợt đấu thầu TPCP bằng nội tệ với tổng giá trị TPCP đưa ra đấu thầu là 47.800 tỷ đồng, kết quả đạt được 2.306 tỷ đồng, tương ứng với 4,8% khối lượng đưa ra đấu thầu. Bộ Tài chính đã hàng chục lần điều chỉnh lãi suất trần của các TPCP với các kỳ hạn và nhà phát hành khác nhau; diễn biến lãi suất trần TPCP và lãi suất kỳ vọng như “trò chơi đuổi bắt”, mỗi khi huy động không được thì lại tăng lãi suất trần và lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư lại tăng lên; nó phản ánh nỗ lực huy động vốn của cơ quan chủ quản trong khi khả năng đánh giá, điều tiết và ổn định thị trường còn rất hạn chế. Tính trung bình trong 72 phiên đấu thầu vừa qua, lãi suất kỳ vọng bình quân luôn cao hơn lãi suất trần 1,06%.

Một vấn đề đặt ra là hiện tại có quá nhiều tổ chức phát hành TPCP hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, đó là: KBNN, VEC, VBSP, VDB, HIFU. Nó làm loãng khả năng huy động cho NSNN; với mỗi trái phiếu kể cả cùng kỳ hạn cho các tổ chức này lại có mức lãi suất trần khác nhau, điều này càng làm khó hơn cho cơ quan quản lý (Bộ Tài chính), dẫn đến sự “méo mó” công cụ nợ đòi hỏi cao về tính chuẩn này của thị trường.

(Phụ lục kết quả đấu thầu TPCP kèm theo)

4. Tăng trưởng tín dụng:

Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng tháng 8 tiếp tục tăng; trong đó cho vay bằng VND đã chậm lại, bằng USD tiếp tục mạnh lên. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng đối với nền kinh tế tháng 8/2009 ước tăng 1,75% so với cuối tháng trước; Như vậy, tổng dư nợ tín dụng qua 8 tháng đã tăng tới 24,8% so với cuối năm 2008.

Trong báo cáo giữa tháng 8/2008, chúng tôi đã phân tích các kịch bản về tăng trưởng tín dụng khi NHNN công bố kiềm chế tốc độ tăng dư nợ tín dụng ở mức 25%-27%, theo đó chúng tôi khẳng định rằng nó không khả thi và dự báo rằng NHNN sẽ phải điều chỉnh tốc độ này, nay đã được điều chỉnh mức tăng cả năm trở lại là 30%. Tuy nhiên, với mức tăng 8 tháng (24,8%), dư dịa tăng tín dụng còn lại chỉ là 5,2%, tương ứng với bình quân cho 4 tháng cuối năm là 1,3%, đây là mức rất nhỏ bé và khó đạt được, trong bối cảnh nhu cầu vốn thường tăng cao vào cuối năm, đặc biệt khi đang dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.

Hệ thống ngân hàng vẫn đang trong tình trạng chưa vững chắc về thanh khoản khi lãi suất liên ngân hàng vẫn đang tăng; quy định mới về tỷ lệ cho vay dài hạn bằng vốn ngắn hạn khiến rất nhiều NHTM phải tăng lãi suất huy động ngắn hạn [[12]] cũng phần nào minh chứng điều này. Hiện tượng này cho thấy một số vấn đề quan trọng:

+ Các NHTM sẽ hạn chế cho vay trung dài hạn, => hạn chế vốn đầu tư đối với nền kinh tế (mà điều quan trọng đối với tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua là nhờ vốn), do vậy khả năng tăng trưởng GDP sẽ bị kìm hãm.

+ Thanh khoản của các NHTM trong nước là chưa thực sự bền vững.

+ Người gửi tiền do lo ngại lãi suất tăng nên sẽ ưa thích gửi kỳ hạn ngắn hơn; do vậy càng khuyến khích các NHTM tiếp tục chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”; và các người ta sẽ có thiên hướng kinh doanh ngắn hạn hơn là dài hạn vào các ngành có kỳ vọng tỷ suất lợi nhuận nhanh và cao hơn (ví dụ: vàng, chứng khoán, bất động sản...)

5. Triển vọng 2010:

Trong bối cảnh nền kinh tế bắt đầu ổn định lại để phục hồi, chúng tôi nhận thấy nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp đang gia tăng nhanh chóng để đón bắt cơ hội sau khủng hoảng kinh tế; nhưng sự khát vốn này đang hạn chế các doanh nghiệp. Tổng hợp các vấn đề về tăng trưởng tín dụng và lãi suất như trên, chúng tôi dự báo:

- Lãi suất TPCP sẽ tiếp tục nhích lên và sang năm 2010, mặt bằng về lãi suất huy động và cho vay sẽ cao hơn so với hiện nay. Nó tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp có hệ số nợ lớn.

- Nhu cầu vay USD của các doanh nghiệp cũng đang và sẽ tiếp tục tăng, tỷ giá VND/USD sẽ tiếp tục tăng (đồng VND yếu đi), tín dụng USD sẽ tăng lên và lãi suất USD sẽ tiếp tục nhích lên. (Lý do bổ sung: Yếu tố bù lãi suất kích cầu bây giờ không còn hấp dẫn như trước nữa).

Đối với chứng khoán:

+ Do chi phí trả lãi tăng lên nên kết quả kinh doanh quý IV có thể không bứt phá mạnh, nhưng kết quả chung cả năm 2009 nhìn chung vẫn khả quan do nền kinh tế phục hồi và kết quả đầu năm 2009 tốt nhờ chi phí tín dụng thấp do kích cầu bù lại. Nhưng kết quả kinh doanh quý I/2010 sẽ khó thực sự tốt do chi phí lãi tín dụng tăng vì mặt bằng lãi suất cao hơn, cạnh tranh với hàng hóa quốc tế (đặc biệt Trung Quốc) sẽ mạnh mẽ hơn sau khủng hoảng.

+ Luồng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCKVN sẽ không thực sự cao do nền kinh tế Việt Nam có những yếu tố rất nhạy cảm tác động vào. Các doanh nghiệp thủy sản (trừ cá da trơn) trong triển vọng dài hạn (lưu ý là dài hạn) sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn, đặc biệt là các hoạt động khai thác và đánh bắt tài nguyên biển do “nền kinh tế biển” của Việt Nam bị “hạn chế” về biển bởi các yếu tố đến từ phương Bắc.

+ Cũng chính vì các NHTM đang hạn chế cho vay dài hạn và chủ yếu huy động ngắn cho vay ngắn nên động lực cho tăng trưởng trung -dài hạn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cổ phẩn nói riêng sẽ bị hạn chế. Vì thế, nếu các cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế và cơ cấu vốn của doanh nghiệp không vững thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ khó ổn định. Do vậy, chúng tôi khuyến nghị chỉ lựa chọn các doanh nghiệp có nền tảng tài chính và cấu trúc nợ thật vững; tăng nhanh vòng quay vốn đầu tư chứng khoán và nhìn chung hạn chế đầu tư dài, trường hợp ngành khai thác khoáng sản là một ngoại lệ.

+ Các doanh nghiệp về khai thác khoáng sản, vận tải biển (kể cả cảng biển) và năng lượng sẽ có nhiều lợi thế do nền kinh tế phục hồi, nhu cầu về tài nguyên năng lượng và vận tải hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng.

Đối với nợ quốc gia: Thật khó để phân tích kỹ càng vì hiện tại nền kinh tế của chúng ta chưa minh bạch, các chỉ số vĩ mô này không được công bố (trong khi tại các nước phát triển công bố chính thức đều đặn định kỳ), nhưng một điều dễ nhận thấy là:

- Kỳ vọng về tăng trưởng để đạt được các mục tiêu kinh tế-chính trị trước năm 2011 là rất cao (đây là năm có sự kiện rất quan trọng về chính trị, tạm gọi là bầu cử), do đó phải tạo động lực cho nó.

- Hàm sản xuất Cobb Douglas (Y=f(K, L, Tf)) chỉ ra rằng nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải dựa vào yếu tố Tf (năng suất tổng hợp, bao gồm công nghệ, chất lượng nhân lực, quản trị…) chứ không thể chỉ dựa vào K (vốn) và L (lao động). Việt Nam chúng ta mới chỉ chủ yếu dựa vào K và L mà thôi; thể hiện ở: (i) tăng mạnh vốn đầu tư để đạt mục tiêu tăng trưởng; (ii) lao động giá rẻ. Nhưng vốn không phải là vô hạn do sự ràng buộc về các tỷ lệ nợ theo thông lệ và giới hạn về phân bổ danh mục đầu tư của các nhà đầu tư, tiền cũng không thể in mãi và đặc biệt là nó dễ nảy sinh tham nhũng mạnh hơn. Thời của lao động giá rẻ với Việt Nam (ví dụ tiêu biểu là ngành dệt may và da giày) sẽ qua đi do sự dịch chuyển về phân bổ lao động thế giới sang các nước khác có mức thu nhập thấp hơn; do thu nhập đầu người của Việt Nam đang tăng lên, lương tối thiểu cũng tăng lên, môi trường kinh doanh kém hấp dẫn hơn. Trong bối cảnh hiệu quả đầu tư của Việt Nam chưa cao (ICOR khoảng trên 5), để đạt được các mục tiêu kinh tế trước 2011 chỉ còn cách là tăng vốn (K). Do vậy chi tiêu công sẽ không thể thấp đi (xét về tỷ lệ), và như vậy nợ quốc gia cũng chưa thể thấp đi được. Nền kinh tế sẽ vẫn “khát” vốn tựa thuở nào và lãi suất không thể giữ mặt bằng này mãi được.

- Sang năm 2010, một số vấn đề cần cân nhắc kỹ khi lựa chọn đầu tư, các yếu tố có thể tăng (vì cả ý muốn chủ quan và nguyên nhân khách quan), đó là: (i) Thuế và các loại phí; (ii) giá năng lượng, bao gồm cả điện và xăng dầu; (iii) lạm phát.

---------------


[9] Nguồn số liệu: Adb.org

3 nhận xét:

  1. cám ơn anh đã lập blog chia sẻ thông tin, hy vọng anh sẽ cập nhật thường xuyên nhé.

    Trả lờiXóa
  2. Cảm ơn anh vì các thông tin bổ ích ạ.

    Trả lờiXóa